
Phân tích bài thơ Tràng Giang của nhà thơ Huy Cận
Bài làm
Huy Cận là một trong những hồn thơ vô cùng độc đáo trong phong trào thơ mới. Thơ của ông mang nỗi sầu nhân thế trước cách mạng, còn sau đó thì thơ lại thể hiện được sự tươi mới, ca ngợi con người mới. Nổi bật nhất cho phong cách thơ Huy Cận trước cách mạng không thể không nhắc đến bài thơ Tràng Giang. Tràng giang là một thi phẩm thể hiện cái tôi buồn miên man của nhà thơ trước cảnh trời rộng, sông dài. Thông qua đó thể hiện được nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình.
Đầu tiên chúng ta phải hiểu vì sao Huy Cận lại đặt tên tác phẩm của mình là “Tràng Giang”? Tràng giang có ý nghĩa là sông dài, từ tràng cũng đọc là trường. Thế nhưng từ tràng giang với âm hưởng mênh mang của nó, khi đọc lên cũng lại gợi ra được cảnh bao la, bát ngát. Huy Cận sử dụng từ Hán – Việt như để tạo ra được vẻ cổ kính, vĩnh viễn của dòng sông.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Người đọc cũng sẽ phải ấn tượng ngay với câu thơ đầu gợi tả cảnh dòng sông mênh mang. Câu thơ gợi nhắc về hình ảnh của những con sóng gợn lô nhô gối nhau tới chân trời và như đang tạo cảm giác êm ả trong không gian quạnh vắng như chứa đựng sẵn nỗi buồn. Sử dụng các từ ngữ buồn điệp điệp và sầu trăm ngả khiến cho cả bài thơ mang một sắc màu cổ kính.
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Câu thơ gợi sự lạc lõng, vô định và hình ảnh của cành củi qua bao sông suối mà trôi về đây, tất cả như cứ dập dờn giữa chốn sông nước bao la. Phải chăng hình ảnh của cành củi lúc này đây lại gợi liên tưởng đến cảnh đời lạc loài, bơ vơ và không biết đi về đâu.
Chỉ với khổ thơ gợi tả cảnh với không gian sông nước mênh mông thêm với đó là những đường nét cứ thật song song, điệp điệp. Nhưng đáng nói lại sầu trăm ngả. Huy Cận sử dụng thủ pháp tương phản giữa hình ảnh dòng sông như thật rộng lớn để làm nổi bật hình ảnh cành củi khô cùng với chiếc thuyền thật nhỏ bé biết bao nhiêu.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu
Hình ảnh cồn nhỏ đơn côi ở giữa dòng sông, thế rồi lại thêm ngọn gió đìu hiu làm cho cảnh càng hoang vu, hiu hắt, chìm khuất hơn nữa. Rồi lại có dòng nước lũ trên thượng nguồn đổ về nhấn chìm cồn nhỏ ở ngay giữa sông chỉ còn nhô lên vài ngọn cỏ cứ lưa thưa gợi liên tưởng đến những thân phận bị dòng đời như cứ nhấn chìm xô dạt. Khi đó thì không gian mở rộng sang bên bờ sông có cảnh chợ chiều đã vãn càng tô đậm cái vắng vẻ, xa lìa. Và chính cảnh chợ chiều có gợi đến cuộc sống, quê nhà thế nhưng chỉ là âm thanh xao xác rồi chợt mất hút dần trong cảnh mênh mang càng như lại vắng lặng của dòng sông. Hình ảnh dòng sông trong thơ như bị tách ra khỏi cuộc đời nên đứng trong cảnh ấy lòng người càng thêm thương nhớ cuộc sống quê hương khôn nguôi
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Câu thơ trên được Huy Cận sử dụng giàu hình tượng, gợi tả không gian có hình khối đường nét và màu sắc. Đó chính là hình ảnh có từng vạt nắng trên cao rơi xuống tạo nên khoảng không sâu thẳm trên bầu trời cao kia. Thêm với đó chính là một độ sâu của bầu trời như ở ngọn cót vót. Người đọc có thể nhận thấy được với cách dùng từ sâu gợi không gian bầu trời như mở rộng và đẩy lên cao hơn, sâu hơn. Giúp cho Huy Cận tạo ra không gian thăm thẳm, khôn cùng vô biên của vũ trụ và nỗi buồn của người thi nhân cứ kéo dài mãi khôn nguôi.
Sông dài, trời rộng bến cô liêu
Hình ảnh dòng sông, bến bãi cho đến hình ảnh bầu trời đều rời rạc và được khỏa lấp nỗi buồn của nhà thơ Huy Cận. Buồn vì thiếu vắng cuộc sống nên mong tìm về với cuộc sống thân thuộc nơi quê hương;
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyển đò ngang
Không cầu một chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Tất cả các sự vật được bên nhau như bèo dạt nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng nhưng nó vô tình lại tạo ra một thế giới không liên hệ, chia lìa. Có thể nói ở trong khung cảnh ấy hồn thơ của tác giả dường như lại muốn tìm đến dấu vết của cuộc sống nhưng tất cả đều mênh mông xa vắng được nhấn mạnh bởi hai lần phủ định rõ ràng biết bao:
Mênh mông không một chuyển dò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Câu thơ gợi nhắc một hình ảnh không một con đò, không một chiếc cầu tri âm, không có bóng người hay cái gì gợi đến tình người để mà gặp gỡ giao tiếp. Qua đây ta nhận thấy được chỉ có mặt nước mênh mông vắng lặng. Đây là những chất xúc tác khiến cho lòng người như buồn hơn chính vì sự thiếu vắng của cuộc đời con người.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Với câu thơ cuối ta nhận ra được khung cảnh mở ra với hình ảnh núi bạc được kết tạo bằng mây trắng lấp lánh ánh nắng trời. Chỉ cần một cánh chim chiều xuất hiện làm cho bức tranh thêm sống động hơn như con người lại cảm thấy nhỏ bé và vô cùng mông lung gợi nhớ quê hương hơn;
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Với ý thơ cuối mượn từ tứ thơ của Thôi Hiệu đời Đường:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
(Hoàng Hạc Lâu)
Nếu như người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà, còn đối với thi sĩ Huy Cận không cần khói sóng vẫn nhớ quê hương. Chắc chắn rằng cũng chính mối tình ấy luôn khắc khoải trong lòng, luôn thường trực và lúc nào cũng trực trào trong lòng của người dân mất nước.
Với một nỗi buồn sông nước, trời mây trong thi phẩm Tràng giang của Huy Cận cũng chính là một nỗi đau cuộc đời, nỗi sầu nhân thế. Nhà thơ Huy Cận như đã gửi gắm vào đó một tấm lòng tha thiết như để yêu quê hương đất nước, sự nâng niu đối với tiếng Việt.
Minh Tân